Nghị
quyết VII Ban chấp hành Trung ương Ðảng Cộng sản Việt Nam khoá X về “Nông
nghiệp, nông dân, nông thôn” nhận định công cuộc xây dựng phát triển nông thôn
mới Việt Nam, có vị trí chiến lược trong sự nghiệp Công nghiệp hoá, Hiện đại
hoá, Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, việc nghiên cứu những nguyên tắc cho
việc thiết kế giải pháp kiến trúc nhà ở phù hợp với hoàn cảnh một nông thôn mới
(NTM) trở nên cấp thiết.

• Khái
niệm “Nhà ở nông thôn mới”
Dựa
theo theo Nghị quyết 26-NQ/T.Ư của Trung ương Đảng, Bộ Xây dựng đã điều chỉnh
một số tiêu chí nhà ở nông thôn đã được quy định tại Thông tư
41/2013/TT-BNNPTNT của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và bổ sung thêm
hướng dẫn thực hiện theo thông tư trên. Theo chúng tôi, có thể rút ra một số
yêu cầu chính về giải pháp nhà ở NTM như sau:
Phải
đảm bảo “3 cứng” (nền cứng, khung cứng, mái cứng). Các bộ phận nói trên phải
được làm từ các loại vật liệu có chất lượng tốt, không làm từ các loại vật liệu
tạm, mau hỏng, dễ cháy, niên hạn sử dụng công trình nhà ở từ 20 năm trở lên.
Kiến trúc, mẫu nhà ở phải phù hợp với phong tục, tập quán, lối sống truyền
thống của địa phương, đảm bảo yêu cầu vệ sinh, thuận tiện cho sinh hoạt, phù
hợp với phong tục, tập quán, lối sống cũng như kế thừa hình thức kiến trúc
truyền thống, gắn bó hài hòa với khung cảnh thiên nhiên, tiết kiệm năng lượng,
chống được tác động nắng, mưa, gió, bão ngày càng gia tăng bởi tác động của
biến đổi khí hậu, phải giải quyết được mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa không
gian sản xuất, không gian công cộng, không gian ở và sinh hoạt của từng hộ gia
đình.
• Khái
niệm Nhà ở Tiến hóa (Evolutionary housing)
Khái
niệm “Nhà ở Tiến hóa” được KTS Edgardo Martinez, người Uruguay đưa ra năm 1993
làm cơ sở cho các giải pháp nhà ở người thu nhập thấp, khi còn thiếu các nguồn
lực đầu tư ban đầu chưa thể đáp ứng các chuẩn cần thiết, nhưng sẽ tiến hóa đáp
ứng dần trong tương lai. Giải pháp “Nhà ở Tiến hóa” cho phép nhà phát triển dần
về lượng và chất như diện tích, không gian, số và chất lượng thiết bị. Thời
gian được coi như một nguồn lực cho phát triển nhà ở.
Sandeep
Arora (Hoa kỳ) và Shweta Saxena (Ấn độ) lại phát triển khái niệm “Kiến trúc
tiến hóa” theo hướng áp dụng các nguyên tắc sinh khí hậu để tạo ra công trình
kiến trúc phù hợp với thiên nhiên. Công trình định, các thành phần định vị nơi
có thể thay đổi cấu kiện, các thành phần tương tác linh hoạt thay đổi hay nâng
cấp. Các hướng nghiên cứu là: Thiết kế Thích ứng (Adaptive design), thiết kế
Tương tác (Interactive design), thiết kế Hiệu quả Đồng bộ (Effectively
Intergrated design).
John
cùng Julia Frazer (1995) dựa vào luận văn tốt nghiệp được giải năm 1969, xuất
bản sách “Kiến trúc Tiến hóa” (An Evolutionary Architecture) vận dụng quy luật
phát triển của các chuỗi ADN và đi sâu vào sử dụng công nghệ thông tin để xử lý
quá trình tiến hóa của kiến trúc theo mô hình hữu cơ. Lý thuyết này áp dụng có
lợi hơn cho nhà ở lớn hay các quần thể khu ở.
• Việc
áp dụng máy móc nhà ở kiểu đô thị hiện nay không đạt hiệu quả của nhà ở NTM
Với
nông thôn - làng quê Bắc bộ: Người ta thường nghĩ đến cổng làng, cây đa sân
đình, đến luỹ tre, vườn cây, ao cá… Nay khung cảnh đó đang bị thay bằng dãy nhà
ống, đường làng được bê tông hoá… Trái lại đã phát sinh yêu cầu giải quyết
những vấn đề gay gắt trong đô thị như: Tổ chức cộng đồng dân cư, bảo vệ cảnh
quan môi trường sinh thái…
Với
Nông thôn - làng quê miền Tây Nam bộ: Nguồn vật liệu truyền thống như gỗ xây
nhà rường, tường phên hay gạch nung làm vách không còn dồi dào làm cho nét dân
gian bị mai một. Trái lại vấn đề lớn đặt ra là phải có có môi trường an toàn,
nhất là nguồn nước hợp vệ sinh, nhu cầu có nước máy, lại phải chống ngập lụt từ
hiện tượng biến đổi khí hậu.
Xu
hướng xây rập khuôn theo hình mẫu nhà ống của đô thị trên toàn quốc gần đây, có
nhiều đặc điểm không phù hợp với môi trường cảnh quan nông thôn, với chiều rộng
từ 4 - 5m, dài 20m, với 1 - 3 tầng, thường ở “phố huyện”, chiếu sáng tự nhiên
và thông gió kém.
Xu
hướng nhà xây chen trong các xóm làng hiện nay kiểu nhà đô thị do chưa chú ý
thích đáng đến những yếu tố bất lợi về môi trường ở như nắng nóng, bão lụt nên
không tiết kiệm năng lượng, chất lượng sống và thẩm mỹ kiến trúc yếu kém, ảnh
hưởng đến cảnh quan nông thôn, lại xuất hiện nhu cầu cấp thiết về sử dụng nước
máy, hầm xử lý chất thải.
• Kiến
trúc cổ truyền vốn có nhiều đăc điểm phù hợp với việc áp dụng giải pháp thiết
kế tiên tiến, việc duy trì các đặc điểm cổ truyền không xuất phát từ ý thức “Nệ
cổ”.
Không
gian nhà Việt phải giữ lại nét đẹp trong kiến trúc cổ, do những đặc điểm ưu
việt này đã qua được thử thách hàng ngàn năm, tuy nhiên sẽ không làm tạm bợ,
nghèo nàn.
Mặt
bằng vẫn có thể trung thành với bố cục 3 hay 5 gian: 01 phòng khách và thờ; 01
hoặc 2 phòng ngủ hay hơn, phía sau các quan điểm thiết kế tiên tiến có thể biến
đổi phù hợp cho các loại gia đình khác nhau, hay các hoàn cảnh đa chức năng
hiện tại hay mới.
Giải
pháp kỹ thuật chung: Do hoàn cảnh kinh tế của đại đa số gia đình nông dân, chưa
thể áp dụng công nghệ cao một cách rộng rãi nên vẫn phổ biến sẽ là công nghệ
thích hợp, có thể áp dụng linh hoạt, dễ thi công, có thể dùng nhân lực địa
phương. Cụ thể là:
+
Kết cấu phải là “khung cứng” vì vậy nên là khung bê tông cốt thép chịu lực
chính.
+
Mái xây dựng theo hình thức “mái cứng”
lợp ngói
hoặc tôn có lớp
cách nhiệt xốp hay kèm lớp lá cây tự nhiên.
+
Tường ngoài bằng gạch nung hay không nung, vách ngăn trong nhẹ và có thể thay
đổi linh hoạt, để đáp ứng việc thay đổi và nâng cấp của yêu cầu công năng, kết
hợp công nghệ giải quyết tốt điều kiện vi khí hậu như thông gió, chiếu sáng tự
nhiên, tiết kiệm năng lượng,
+
Xử lý tốt nước thải sinh hoạt, nước thải chăn nuôi và bảo vệ môi trường.
Loại
nhà ở thuần nông: Dành cho gia đình chủ yếu sản xuất nông nghiệp. Là loại có từ
xưa vì vậy khi thiết kế nên lưu giữ lại hình thức kiến trúc và không gian kiểu
truyền thống, kết hợp hệ thống kết cấu “khung cứng, mái cứng” hệ tường, vách có
tính linh hoạt.
Loại
nhà ở của hộ dân kết hợp hoạt động kinh tế gia đình: Mang tính trang trại ngoài
việc đảm bảo điều kiện sinh hoạt, gắn kết với vườn cây, ao cá, nhà phụ hay
xưởng.
Loại
nhà ở của hộ dân có kết hợp thương mại: Thường là các nhà ở trên phố Huyện. Do
nhu cầu ngoi ra mặt phố, thường tổ chức không gian theo kiểu nhà ống, lại có
sân vườn rau, dùng sân trong để cách ly không gian ở với không gian buôn bán,
nhưng tránh rập khuôn nhà ở đô thị.
• Áp
dụng quan điểm: Kiến trúc có tính thích ứng (Adaptable) trong sự tiến hóa:
Như
các văn bản nghị quyết chỉ đạo của Đảng, nhà nước đã chỉ ra: Hoàn cảnh NTM có
tốc độ tiến bộ không ngừng về chất lượng ở, về yêu cầu sản xuất với tốc độ cao
và hình thức đa dạng có thể chuyển biến không ngừng. Vì vậy nhà ở NTM phải có
tính thích ứng mà lý thuyết “Nhà ở tiến hóa” đã phần nào miêu tả để đáp ứng yêu
cầu tiến bộ và đa dạng. Kiến trúc thích ứng (Adaptable) bao gồm một số đặc tính
quan trọng nhất: Tính biến đổi điều chỉnh linh hoạt; Tính di chuyển được; Tính
nâng cấp được.
a. Giải pháp kiến trúc nhà cho phép biến
đổi điều chỉnh linh hoạt (Transformable). Kiến trúc Cổ điển qua phương châm của
Vitruvius thời La Mã là: Thực dụng, Vững chắc và Thẩm mỹ (Utility; Solidity and
Beauty) đã quan niệm kiến trúc với những giá trị bất biến.
Nhưng
những lý thuyết công kích những đặc tính bất biến của kiến trúc bùng lên vào
khoảng 1960, Kts John Weeks người Anh, bàn đến việc kiến trúc sư nên để bỏ dở
tác phẩm của mình để tạo khả năng tiếp tục hoàn thiện công trình một cách linh
hoạt trong tương lai.
Kiến
trúc biến đổi linh hoạt trở thành một khái niệm được diễn giải bởi nhiều lý
thuyết, trong đó cho phép công trình được thiết kế theo một công năng chính lại
có thể điều chỉnh để đảm nhiệm các công năng khác. Kiến trúc biến đổi linh hoạt
phải cho phép sự thay đổi ít hay nhiều về hệ thống kết cấu, vỏ bao che, không
gian bên trong.
Kiến
trúc biến đổi linh hoạt được coi là một nhân tố tạo ra môi trường phát triển
bền vững khi có thể bảo tồn công trình và chỉnh sửa đề tái sử dụng, lại hình
thành các “chợ” bán, trao đổi linh kiện cũ - mới, mà không đem đập phá sinh
rác, ô nhiễm môi trường.
Muốn
đạt khả năng biến đổi, giải pháp cấu tạo của nhà ở NTM sẽ có thể là:
+
Hệ kết cấu khung BTCT thông dụng là kết cấu chính kết hợp vẫn rất thích hợp.
+
Một số cột dầm, khung hay mối nối có thể tháo dỡ hay ráp nối thay đổi, phát
triển, vì vậy nên có một số thành phần cấu tạo bằng thép, các mối nối khô kết
nối, tháo lắp được.
+
Một số thành phần không gian có thể chia nhỏ hay thay đổi chức năng như phòng
ngủ thành phòng khách. Các khu bếp, tắm, vệ sinh, có thể di dời thay thế được
từng phần hay nguyên khối, nâng cấp kiểu tốt hơn, vì vậy nên có giải pháp đúc
sẵn, lắp ghép.
+
Không nên bố trí lưới cột quá dày để tạo khoảng trống bên trong, để có thể thay
đổi không gian khi bố trí lại các vách ngăn theo ý đồ công năng mới.
+
Các thành phần kết cấu và cấu tạo có thể di dời vị trí hoặc dùng mối nối khớp
lật qua lại, thay đổi góc liên kết để tạo hiệu quà thông gió, chiếu sáng theo
hoàn cành và ý đồ.
+
Hệ thống kết cấu nên thiết kế sẵn khả năng cho phép cơi một ít tầng.
+
Cần mô đun hóa kích thước để dễ dàng thay thế các thành phần kết cấu và cấu
tạo, nhất là các vách ngăn bên trong. Cũng từ mô đun hóa sẽ dễ hình thành thị
trường hay chợ mua bán trao đổi các thành phần nói trên, khi dễ dàng ăn khớp
khi thay thế, có thể tân trang lại, hạn chế tối đa việc phá bỏ phát sinh rác
rưởi.
+
Việc mô đun hóa kích thước cấu kiện và không gian không phải mới xuất phát từ
việc vận dụng các nguyên tắc xây dựng công nghiệp hóa, thi công lắp ghép mà có
từ lâu trong kiến trúc truyền thống như việc vận dụng “thước tầm” đã được giới
thiệu rộng rãi.
b. Giải pháp nhà cho phép di chuyển
(Mobile).
Kiến
trúc cho phép thay đổi vị trí xây dựng được người ta áp dụng từ lâu qua các
kiểu lều trại du mục. Kronenberg miêu tả kiến trúc di chuyển là: “Lăn trên đất,
nổi trên nước hay bay trên trời”. Các ưu điểm là:
+
Góp phần bảo vệ môi trường khi tránh việc bị đập phá bỏ để lại rác rưởi ô
nhiễm.
+
Dễ dàng đáp ứng yêu cầu thay đổi quy hoạch, giải tỏa hay mở rộng lộ giới…
+
Đáp ứng hoàn cảnh thay đổi khí hậu khi ngập lụt có thể di dời lên khu đất cao
hơn hay nổi lên trên mặt nước nhờ một số kĩ thuật đơn giản nói ở mục sau.
+
Đáp ứng một số nhiệm vụ nhất thời như đi xa khai hoang, lều canh giữ ruộng
vườn.
Một
số giải pháp kiến trúc thông dụng cho phép nhà có thể di chuyển là:
+
Giải pháp nhà nguyên khối hình hộp (Loft Cubes), hay kết cấu máng căng, hay tận
dụng container thép, dễ dàng cho xe chở hay kéo đi, dùng cho lều du canh, lán
trại.
+
Giải pháp kết cấu khung cứng nhưng không dùng mối nối ngàm với móng chôn sâu mà
dùng mối nối dạng khớp (tiêu biểu là hình thức cột nhà dân gian đặt lên đá
tảng). Giải pháp này đáp ứng được yêu cầu ở đây là sự dịch chuyển ít khi xảy ra
khi phải thay đổi vị trí xây dựng như do dời lộ giới, do nền bị ngập nước.
Trong hoàn cảnh NTM có thể áp dụng cả cho nhà vài tầng, khi cần có thể di dời
bởi các “thần đèn” dân gian với công nghệ thông dụng mà khỏi bị phá dỡ.
c .Giải pháp vận dụng kiểu nhà trên cột
xây trên mặt đất hay tại vùng ngập nước.
Giải
pháp này cũng là sự kết hợp giữa hình thức nhà sàn các dân tộc Đông Nam Á trong
đó có Việt Nam và 5 nguyên tắc thiết kế nhà trên cột của KTS Le Corbusier.
Ngoài
các khu dân cư phải sống ven kênh rạch, hồ, thì trong hoàn cảnh biến đổi khí
hậu xảy ra, khả năng phải sống chung với nước là rất lớn. Vì vậy những dự án
nhà ở NTM táo bạo xây trên cột tại vùng ngập nước là một nhu cầu lớn.
d. Giải pháp tạo hiệu quả tiết kiệm năng
lượng
Việc
áp dụng những công nghệ tiên tiến nhưng đơn giản, phù hợp với túi tiền đa số
gia đình nông dân để tạo hiệu quả tiết kiệm năng lượng, chủ yếu là trong hai
lĩnh vực chiếu sáng và thông gió là khả thi và rất nên áp dụng. Khi tiếp xúc
lần đầu tiên với nhà dân gian Việt Nam, các tác giả Pháp cho rằng nhà dân gian
Việt Nam rất tối.
Việc
dẫn truyền ánh sáng vào sâu trong nhà có thể thực hiện bằng những giải pháp
như: Dùng các mặt phẳng phản xạ là các tấm gương ốp mặt trên các lam chắn nắng
chống trực xạ rọi lên trần. Trần sơn mờ sẽ đóng vai trò phát tán ánh sáng kiểu
tản xạ vào sâu trong nhà. Cách dẫn ánh sáng này tránh được các tia trực xạ gây
chói và nóng nực. Các mặt phẳng phản xạ có thể thay đổi góc mặt nghiêng bằng
các cơ chế điều khiển bằng tay hay tự động để truyền ánh sáng theo hướng mong
muốn.
Có
thể chiều theo góc chiều tự nhiên của ánh sáng mặt trời để dẫn tia sáng vào ống
và truyền đi qua bằng cách phản xạ với thành ống dẫn sáng. Nhưng để khỏi tổn
thất cường độ sáng do phản xạ nhiều lần, có thể dùng tấm LCP (Laser Cut Panel)
để ánh sáng chiếu qua được dẫn đi thẳng.
Kỹ
thuật dẫn truyền ánh sáng tự nhiên vào nhà đã được PGS. TS. Phạm Đức Nguyên
miêu tả qua tác phẩm “Công trình Xanh và các giải pháp kiến trúc thiết kế công
trình xanh”.
Việc
áp dụng các tấm lam hay trần, vách, sàn nhà di động cũng có thể có tác dụng
điều tiết khí hậu qua việc hướng dẫn luồng gió, vì vậy yêu cầu cấu tạo một số
thành phần kiến trúc như cửa phải đóng mở linh hoạt dễ dàng, cửa lá sách hay
chớp vẫn cần, các tấm sàn có thể xê dịch di động nhường lối cho luồng gió nhưng
vẫn phải đạt độ kín gió cao, vì vậy cửa nhựa lõi sắt sẽ được dùng phổ biến, cửa
gỗ sẽ ít dùng hơn.
Việc
thông gió đã được nhiều tác giả trình bày, sẽ theo hai nguyên tắc chính: Thổi
thẳng, nhất là thông gió xuyên phòng, cần chú ý chống gió lạnh ở phía Bắc. Vận
dụng hiệu quả ống thông phong (Stack effect) tự động hút luồng không khí lên
đỉnh nhà hay cửa trước. Sân trong hay lồng cầu thang cũng có hiệu quả hút gió
lên.
Nhà
dân gian Việt Nam có vẻ đep truyền thống, lại vốn có nhiều ưu điểm phù hợp với
các quan điểm “Kiến trúc tiến hóa”, có khả năng biến đổi linh hoạt hơn một số
kiểu nhà thiết kế rập khuôn máy móc nhà ở đô thị. Việc tiếp tục phát huy đặc
điểm nhà dân gian Việt nam để đạt tiêu chuẩn nhà ở NTM không hề là vì “Nệ cổ”,
nhất là khi kết hợp với các hệ thống công nghệ mới.
Tác giả: PGS.TS.KTS Trần Văn Khải, Đại học Tôn Đức Thắng, Q.7, TP.Hồ Chí Minh
Nguồn tin: TẠP CHÍ KIẾN TRÚC SỐ 5+6/2015
Sưu tầm: Trương Gia Bảo