Các đô thị cấp huyện, cụm khu dân cư nông thôn là nơi chứa đậm bản
sắc của lối sống Việt Nam, của đặc thù về điều kiện tự nhiên thì còn ít được
nhận diện bản sắc để có giải pháp gìn giữ thích hợp.

Đã đến lúc cần xem xét lại phân loại đô thị không chỉ theo các
tiêu chí chung của cả nước mà cần xem xét tính đặc thù của các đô thị theo
vùng, miền như: ven biển khác miền núi, khác đồng bằng. Đô thị chức năng du
lịch, kinh tế đặc thù khác chức năng trung tâm hành chính. Trong giai đoạn tới,
đây là yêu cầu cần thiết để tạo điều kiện đô thị hóa nhanh mà vẫn giữ gìn được
bản sắc.
Khái niệm đô thị hóa (ĐTH) được hiểu là quá trình chuyển biến về
kinh tế - văn hóa xã hội gắn liền với tiến bộ khoa học kỹ thuật được diễn ra
với sự chuyển dịch cơ cấu lao động, phát triển các hoạt động về văn hóa, nghề
nghiệp, chuyển đổi lối sống, mở rộng không gian và hệ thống kết cấu hạ tầng
song hành cùng với bộ máy quản lý.
Trên thế giới, ĐTH đã diễn ra từ thời cổ đại. Việt Nam với vị trí
địa lý đặc thù, là nơi giao thoa của các nền văn minh - văn hóa lớn của thế
giới đã là quốc gia đô thị hóa lớn ngay từ thời cổ đại. Trải qua thời gian Bắc
thuộc, phong kiến tự chủ, Pháp thuộc và từ sau Cách mạng Tháng 8 đến nay, Việt
Nam phát triển và chịu tác động của nhiều nền văn hóa nhưng đô thị Việt Nam vẫn
tạo lập và giữ được bản sắc.
Bản sắc của văn hóa nói chung, của kiến trúc nói riêng đã được
nhiều nghiên cứu đề cập đến. Tuy nhiên, bản sắc đô thị nói chung hay của kiến
trúc đô thị đặt ra trong bối cảnh hiện nay vẫn còn là những vấn đề cần trao
đổi. Đó là tốc độ ĐTH, sự gia tăng các đô thị lớn đã chuyển dịch từ phương Tây
sang phương Đông và xu thế phát triển bền vững đã trở thành vấn đề toàn cầu
hóa, là thách thức không chỉ với các đô thị đã hình thành mà với cả các đô thị
sẽ hình thành. Trong bối cảnh như vậy, chúng ta càng cần phải thấy rõ những đặc
thù riêng của quá trình đô thị hóa ở Việt Nam, trước hết là từ bản sắc đô thị.
Định hướng tổng thể phát triển hệ thống đô thị Việt Nam
Từ năm 1998, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định 10/1998/QĐ-TTg
phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển Việt Nam đến năm 2020. Mạng lưới đô thị
quốc gia đã nhanh chóng được mở rộng, phát triển. Bên cạnh những kết quả đạt
được cả về số lượng và chất lượng cũng bộc lộ những tồn tại rõ nét là đô thị
chưa có bản sắc, bộ mặt kiến trúc đô thị, cảnh quan còn lộn xộn. Nhiều yếu tố
mới trong hội nhập, biến đổi khí hậu, phát triển bền vững chưa được quan tâm
thỏa đáng. Để giải quyết những tồn tại, đồng thời thực hiện Nghị quyết của Đại
hội Đảng lần thứ X, Thủ tướng Chính phủ đã điều chỉnh định hướng phát triển
tổng thể hệ thống đô thị Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn 2050 (Quyết định
445/QĐ-TTg ngày 07/4/2009) với các chỉ tiêu: Dân số đô thị đến năm 2025 khoảng
25 triệu người chiếm 50% dân số cả nước và số đô thị cả nước khoảng 1000 đô thị
với diện tích đất xây dựng đô thị khoảng 450.000 ha, chiếm 1,4% diện tích đất
tự nhiên cả nước.
Để thực hiện các chỉ tiêu này, rất cần nhìn lại tốc độ ĐTH thời
gian qua. Năm 1999 cả nước có 629 đô thị với tỷ lệ ĐTH toàn quốc là 20,7%. Năm
2009, có 754 đô thị với tỷ lệ ĐTH khoảng 30%. Giai đoạn này có tốc độ tăng dân
số đô thị bình quân là 3,4%. Đến năm 2014, cả nước đã có hơn 770 đô thị, với tỷ
lệ ĐTH là gần 34%.
Trong giai đoạn 5 năm (2009 - 2014) bên cạnh tăng trưởng về số
lượng, điều rất cần chú ý là chất lượng đô thị đã có chuyển biến, có tới 59 đô
thị được công nhận, nâng loại đô thị. Hướng phát triển mạng lưới đô thị được
gắn kết với 6 vùng kinh tế - xã hội quốc gia.
Các đô thị có chức năng trung tâm cấp quốc gia và vùng đô thị được
chú trọng phát triển về chất lượng và giữ gìn bản sắc như Hà Nội, TP HCM, Đà
Nẵng, Huế, Hạ Long…
Song, các đô thị cấp huyện, cụm khu dân cư nông thôn lại là nơi
chứa đậm bản sắc của lối sống Việt Nam, của đặc thù về điều kiện tự nhiên thì
còn ít được nhận diện bản sắc để có giải pháp gìn giữ thích hợp. Đã đến lúc cần
xem xét lại phân loại đô thị không chỉ theo các tiêu chí chung của cả nước mà
cần xem xét tính đặc thù của các đô thị theo vùng, miền như: ven biển khác miền
núi, khác đồng bằng. Đô thị chức năng du lịch, kinh tế đặc thù khác chức năng
trung tâm hành chính. Trong giai đoạn tới, đây là yêu cầu cần thiết để tạo điều
kiện đô thị hóa nhanh mà vẫn giữ gìn được bản sắc.
Tiếp cận các yếu tố tạo lập bản sắc đô thị
Cấu trúc và mô hình đô thị:
Cấu trúc đô thị không chỉ phản ánh sự vận động của lực lượng sản
xuất mà còn bao hàm triết lý văn hóa - xã hội của cộng đồng. Với Việt Nam còn
là sự chuyển tiếp từ nếp sống nông thôn sang nếp sống công nghiệp và quan niệm
phong thủy, tâm linh trước lối sống hiện đại. Trên thế giới và ngay cả Việt
Nam, cũng có những quan điểm cho rằng với sản xuất công nghiệp, nếp sống hiện
đại cần những mô hình, cấu trúc đô thị hiện đại như nhau và xem yếu tố truyền
thống chỉ là của quá khứ.
Cách nhìn nhận này đã tạo nên cấu trúc đô thị “điển hình” hoặc
hình mẫu chung cho mọi đô thị vùng miền. Bài học này từ cuối thế kỷ 20 đã được
thế giới tổng kết và khẳng định rằng “chỉ có bảo tồn, phát huy các giá trị di
sản truyền thống” mới tạo lập được cấu trúc đô thị hiện đại để phát triển bền
vững.
Hà Nội là một đô thị điển hình về quá trình diễn biến trong cấu
trúc đô thị. Nơi đây tập trung gần như đầy đủ các yếu tố trong cấu trúc đô thị
truyền thống Việt Nam, từ cảnh quan thiên nhiên (cây xanh, sông, hồ…), từ các
kiến trúc cổ truyền thống, từ các điểm dân cư “thị” của thời phong kiến, đến
các di sản đô thị dân gian, cận hiện đại chịu ảnh hưởng của văn hóa Châu Âu,
cùng các truyền thuyết, huyền thoại, nếp sống văn hóa truyền thống song luôn
phát triển với đặc trưng văn hóa riêng.
Lịch sử phát triển với các quy hoạch không gian đều luôn khẳng
định trung tâm thành phố là trung tâm lịch sử của Thăng Long - Hà Nội. Các
không gian cảnh quan kiến trúc đô thị, các loại hình kiến trúc công trình từ
làng cổ, phố cổ, khu phố cũ được gìn giữ với chuyển hóa thích hợp. Tất cả được
đan xen hài hòa để tạo thành một tổng thể thích hợp, hòa quyện với cảnh quan,
cây xanh, mặt nước.
Với định hướng như vậy, dù kết quả thực hiện và yêu cầu quản lý
còn một vài tồn tại, song Hà Nội đã thực sự tạo lập được bản sắc riêng, được cả
nước và bạn bè trên thế giới đánh giá cao và là điểm đến của đô thị.
Trong định hướng phát triển đô thị Việt Nam, không thể xác định
mẫu “cấu trúc điển hình” cho các đô thị mà mỗi đô thị phải từ nhận diện quỹ di
sản của mình để tạo lập cấu trúc đô thị có bản sắc riêng phù hợp với điều kiện
kinh tế - xã hội, điều kiện tự nhiên, đặc trưng dân số, trình độ khoa học kỹ
thuật, văn hóa lịch sử của từng địa phương.
Bảo vệ môi trường và cân bằng sinh thái đô thị:
Đô thị với hệ thống chức năng đa dạng, đan kết của nhiều khu chức
năng được xem là hệ sinh thái riêng - hệ sinh thái đô thị có sự tương hỗ giữa
cấu trúc đô thị và môi trường thiên nhiên và là hệ sinh thái “động” có chuyển
hóa nội tại. Với lịch sử phát triển của các đô thị Việt Nam cần phải xem xét
đến yếu tố liên kết giữa hệ sinh thái đô thị với hệ sinh thái nông thôn - sinh
thái thiên nhiên của ngoại thành, ngoại thị và của vùng xung quanh.
Để tạo lập bản sắc đô thị cần nhận diện và bảo vệ hệ khung thiên
nhiên của đô thị: rừng tự nhiên, rừng phòng hộ, vườn Quốc gia, sông hồ cây xanh
và tạo lập vùng ngoại thành, ngoại thị thích hợp với đô thị trung tâm.
Phát triển đô thị Việt Nam vừa qua đã được chú trọng đến các yêu cầu
trên, thậm chí còn có khuynh hướng mở rộng đô thị ra ngoại thành ngoại thị. Hà
Nội được mở rộng địa giới năm 2008 với diện tích đất tự nhiên là 3344km2. Theo
Quy hoạch chung được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt 2011 thì đến năm 2030 dân số
đô thị dự tính khoảng 9 - 9,2 triệu, tỷ lệ đô thị hóa khoảng 65 - 68%, tổng
diện tích đất xây dựng đô thị chỉ chiếm 947 km2 (khoảng 28,3% diện tích tự
nhiên) còn lại hơn 70% là nông nghiệp, lâm nghiệp. Điểm dân cư nông thôn TP Hồ
Chí Minh với diện tích 2.095 km2 theo quy hoạch chung được duyệt năm 2010 thì
đến năm 2015 dân số khoảng 10 triệu người (nội thành 7 - 7,4 triệu, ngoại thành
2,6 - 3,0 triệu) đất xây dựng đô thị khoảng 900 - 1.000km2 còn lại là ngoại
thành với hơn 100 km2. Xu hướng này không chỉ với các đô thị lớn mà còn là
chung với nhiều đô thị khác trong bối cảnh phát triển bền vững và tác động của
biến đổi khí hậu đang được cả thế giới quan tâm thì xu hướng của Việt Nam không
chỉ thể hiện đặc trưng của đô thị Việt Nam mà còn phù hợp với xu thế đô thị hóa
toàn cầu.
Vấn đề đặt ra là ngoại thành, hệ sinh thái nông nghiệp được phát
triển thế nào để phù hợp với chức năng từng đô thị và xây dựng nông thôn mới
ngoại thành, ngoại thị không chỉ theo định hướng xây dựng nông thôn mới nói
chung mà còn cần xác định các tiêu chí đặc thù cho đô thị.
Phát triển kiến trúc cảnh quan, kiến trúc đô thị có bản sắc
Mỗi đô thị Việt Nam trong lịch sử hình thành và phát triển đều
chứa đựng bản sắc riêng về kiến trúc. Để tạo lập bản sắc cho đô thị cũng cần
hình thành bộ mặt kiến trúc cảnh quan, kiến trúc đô thị và kiến trúc công trình
để tạo nên hình ảnh đô thị tương xứng.
Nhìn lại quá trình phát triển kiến trúc nói chung, kiến trúc đô
thị Việt Nam nói riêng chúng ta khẳng định đã có những chuyển biến song cũng
phải thừa nhận rằng kiến trúc Việt Nam chưa khẳng định được trường phái, phong
cách kiến trúc mà chỉ mới có một số xu hướng sáng tác, nguyên nhân thì có nhiều
song cũng có thể khẳng định là chưa xác lập được bản sắc đô thị để định hướng
phát triển kiến trúc.
Để giải quyết rất cần nâng tầm và tạo lập mối quan hệ tương hỗ
giữa những người làm công tác quy hoạch xây dựng với KTS thiết kế công trình và
các nhà quản lý.
Tạo lập bản sắc đô thị là giải pháp tạo bước phát triển mạnh mẽ về
văn hóa – xã hội gắn với phát triển bền vững và là cơ số để đất nước phát triển
nhanh. Đây cũng là vấn đề đa ngành còn cần được nghiên cứu nhiều hơn nữa. Một
số vấn đề nêu trên chỉ là bước đầu cảm nhận rất mong được trao đổi.
Trên thế giới và ngay cả Việt Nam, cũng có những quan điểm cho
rằng với sản xuất công nghiệp, nếp sống hiện đại cần những mô hình, cấu trúc đô
thị hiện đại như nhau và chỉ xem yếu tố truyền thống chỉ là của quá khứ. Cách
nhìn nhận này đã tạo nên cấu trúc đô thị “điển hình” hoặc hình mẫu chung cho
mọi đô thị vùng miền. Bài học này từ cuối thế kỷ 20 đã được thế giới tổng kết
và khẳng định rằng “chỉ có bảo tồn, phát huy các giá trị di sản truyền thống”
mới tạo lập được cấu trúc đô thị hiện đại để phát triển bền vững.
TS.KTS. Đào Ngọc Nghiêm
(Phó Chủ tịch Hội Quy hoạch Phát triển đô thị Việt Nam)
Nguồn tin: Baoxaydung.com.vn
Sưu tầm: Nguyễn Cao Vũ Dũng